KHÁNH PHONG
Như vậy là sau gần 7 năm, công trình sưu tầm và
nghiên cứu dân ca, dân nhạc, dân vũ các dân tộc
thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế được ra mắt bạn đọc.
Công trình này là sản phẩm từ đề tài: ““Sưu
tầm dân ca - dân nhạc - dân vũ các dân tộc thiểu
số Thừa Thiên Huế” (Đề cương nghiên cứu
khoa học cấp tỉnh năm 2003 - 2004) do Sở Khoa
học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế quản lý.
Đơn vị thực hiện là Trường Trung học Văn hóa
Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, do Hiệu trưởng-Nhạc
sĩ Nguyễn Đình Sáng làm chủ nhiệm đề tài.
Nhóm thực hiện đề tài được lựa chọn chính là
những nhà nghiên cứu dân tộc học, văn hóa, nhạc
sĩ, nghệ sĩ hiện đang công tác tại các cơ quan
chuyên môn về văn hóa ở Huế cho nên nhìn vào
công trình này, người đọc sẽ thấy một sự bề thế
của nó về nội dung lẫn hình thức.
Như chúng ta đã biết, vùng núi tỉnh Thừa Thiên
Huế được phân bố trên địa bàn của 2 huyện Nam
Đông và A Lưới và một phần của các huyện Hương
Trà, Phong Điền và Phú Lộc, với 45 xã và thị
trấn có diện tích tự nhiên khoảng 277.600ha,
chiếm 56% diện tích toàn tỉnh. Ở đây người Kinh
chiếm khoảng 40% dân số trong vùng, còn lại là
địa vực cư trú của các tộc người thiểu số như Tà
Ôi (nhóm địa phương Pa Cô và Pa Hy), Cơ Tu và
Bru-Vân Kiều với khoảng 4,6 vạn người tính đến
thời điểm tháng 01/2010.
Các dân tộc anh em sinh sống ở đây với tinh thần
đoàn kết và tương trợ lẫn nhau trong mọi mặt của
đời sống, trong đó bộ phận người Cơ Tu sống tập
trung ở huyện Nam Đông, hai xã Hương Nguyên,
Hương Lâm và rải rác ở các xã Hồng Hạ, Hồng
Thượng của huyện A Lưới. Người Tà Ôi sống tập
trung tại huyện A Lưới, xã Hồng Tiến (huyện
Hương Trà) và xã Phong Mỹ (huyện Phong Điền),
người Bru-Vân Kiều cư trú tập trung chủ yếu ở xã
Xuân Lộc (huyện Phú Lộc). Chính họ đã góp phần
làm giàu thêm bản sắc văn hóa vốn có từ lâu đời
ở nơi đây.
Sống trong môi trường thiên nhiên phóng khoáng
của đại ngàn Trường Sơn, các dân tộc thiểu số
Thừa Thiên Huế đã biết tìm cách thích ứng để tạo
cho mình một bản sắc văn hóa với những tính cách
riêng biệt, trong đó những hình thức sinh hoạt
ca múa nhạc là nét sinh hoạt tinh thần không thể
thiếu trong nếp văn hóa của họ. Nếu như ngày
trước, hình thức diễn xướng ca múa nhạc chỉ phục
vụ cho các lễ hội truyền thống như lễ Aza Koonh
(lễ cầu mùa), lễ cưới, lễ Ariêu Tưk do Kooh (lễ
cúng thần sông núi)...thì ngày nay, các hình
thức diễn xướng này đang được xã hội hóa và phát
triển lớn mạnh góp phần bảo lưu những vốn cổ ở
nơi đây.
Khi đọc sách, người đọc sẽ thấy rõ những tâm sự
của nhóm làm sách và chúng ta sẽ dễ dàng nhận
diện được bức tranh tộc người ở miền núi Thừa
Thiên Huế, nói là các dân tộc thiểu số tỉnh Thừa
Thiên Huế nhưng nhóm thực hiện đã dẫn liệu từ
hai dân tộc chính là Tà Ôi và Cơ Tu mà thôi:
“Công trình này chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu
là dân ca, dân nhạc, dân vũ của hai dân tộc
thiểu số Tà Ôi và Cơ Tu ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
Bởi hai lí do: Thứ nhất: hai dân tộc này chiếm
98% tổng dân số các dân tộc thiểu số trên địa
bàn tỉnh. Thứ hai: hầu hết các tộc người thiểu
số đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên
Huế đều cùng một nhóm ngôn ngữ, lại đang sống
cận kề nhau, xen kẽ nhau, do đó, dân ca, dân
nhạc, dân vũ của họ có rất nhiều điểm tương đồng,
đến mức không thể phân định bài hát, bản nhạc
hay nhạc cụ nào là của dân tộc này hay của dân
tộc kia. Lấy dân ca, dân nhạc, dân vũ của 2 tộc
người chiếm đa số của tỉnh làm đại diện, trong
trường hợp này là hợp lý”.
Trong phần mở đầu, với sự thống kê của nhóm tác
giả cho chúng ta thấy được một sự làm việc cật
lực, cần mẫn trong các khâu, đoạn khi thực hiện
đề tài. Nhóm thực hiện đã tham khảo gần 70 mục
tài liệu về văn hóa dân gian, văn học, dân tộc
học, nghệ thuật, xã hội học, địa lý học, đồng
thời tham gia ghi âm, ghi hình, phác họa những
lời ca, điệu múa, trình tấu nhạc… Không chỉ dừng
lại ở đó, công trình được hoàn thành cũng nhờ
một lực lượng cộng sự đông đảo từ Đội Thông tin
lưu động 2 huyện Nam Đông và A Lưới cũng như Đội
văn nghệ dân gian các làng, bản, xã ở hai huyện
nói trên. Những đóng góp của các nghệ nhân dân
gian này cũng được nhóm thực hiện đề tài trân
trọng bằng cách minh họa những hình ảnh thể hiện
động tác múa và bên dưới có chú thích tên của
từng người. Theo chúng tôi thấy đó là một mặt
mạnh của cuốn sách.
Đi sâu vào nội dung, người đọc sẽ thấy được
những lớp lang của hệ thống trình bày từ việc
nêu:
- “Tổng quan về các dân tộc thiểu số ở tỉnh
Thừa Thiên Huế và những đặc trưng văn hóa tộc
người” phần này cho người đọc biết được nét
đặc trưng trong môi trường cư trú, vấn đề thành
phần tộc người, những đặc trưng văn hóa tộc
người.
- Tiếp theo đó là từng chương giới thiệu từng
mảng:
+ Dân ca với nội dung giới thiệu nét
“Sinh hoạt âm nhạc trong đời sống của người
Tà Ôi, Cơ Tu”, “Các làn điệu dân
ca”, cuốn sách đã giới thiệu 8 làn điệu
dân ca của 2 dân tộc, đồng thời có phiên âm
tiếng nhóm Pa Cô như: Calơi, Ântói, Chachấp,
Xiêng, Babói, Amiêng, Hát ru, Ra rọi, Nha nhim.
Trong 8 làn điệu này có đến trên 10 bài dân ca
minh họa bởi song ngữ Tà Ôi/Cơ Tu - Việt, và ký
âm đây là một nét mới và hay mà trước đây chưa
có công trình nào làm được khi nghiên cứu đề tài
này.
+ Phần Dân nhạc ngay từ đầu chương, các
tác giả đã đi thẳng vào việc phân loại các nhạc
cụ với số lượng 20 nhạc cụ được chế tác từ nguồn
nguyên liệu địa phương, nhạc cụ của người Tà Ôi,
Cơ Tu có đầy đủ các họ tự thân vang, màng rung,
hơi và dây. Sau khi phân loại 20 loại nhạc cụ
theo từng họ, chi thì các tác giả nêu Một số đặc
điểm dân ca, dân nhạc các dân tộc thiểu số tỉnh
Thừa Thiên Huế. Trong phần này, các tác giả cho
chúng ta thấy được tính ứng tác, tính chất hát -
nói, quãng âm đặc trưng của dân ca.
Còn đặc điểm về dân nhạc thì các tác giả đã nêu
ra được nét đặc trưng của các loại nhạc cụ của
người Tà Ôi, Cơ Tu là có nhạc cụ ít dây như
âmplưng, âmpreeng, ântoong. Hoặc đặc trưng nữa
của dân nhạc là ngẫu hứng tự do khi trình tấu
như các nhạc cụ târlè, târcòi và cuối cùng là
các tác giả đã nghiên cứu thang âm trong âm nhạc
dân tộc Tà Ôi, Cơ Tu và cho biết: “Thang âm
của các tộc người này không cùng họ với thang âm
bình quân trong âm nhạc cổ điển châu Âu”.
Để người đọc hiểu rõ hơn về vấn đề phát triển
dân nhạc của 2 tộc người này, các tác giả còn
nghiên cứu và đưa ra những ý kiến mới mẻ về Vấn
đề giao thoa, thâm nhập lẫn nhau giữa âm nhạc
của người Tà Ôi, Cơ Tu với âm nhạc của các dân
tộc khác, ở đây là sự đối sánh giữa âm nhạc của
người Tà Ôi, Cơ Tu với người Bru-Vân Kiều, giữa
người Cơ Tu Thừa Thiên Huế với người Cơ Tu ở các
huyện miền núi Tây Giang, Đông Giang và Phước
Sơn tỉnh Quảng Nam, giữa những bài dân ca mới
của người Cơ Tu được hát theo điệu vè Quảng Nam,
giữa ảnh hưởng âm nhạc mới của người Việt, giữa
người Tà Ôi, Cơ Tu Đông Trường Sơn với Tây
Trường Sơn (biên giới Lào-Việt) vùng Pa Xiềng và
A Xang của nước bạn Lào.
+ Đến với chương Dân vũ, cuốn sách như
thu hút người đọc bởi những động tác uyển chuyển
của những người nghệ sĩ Tà Ôi, Cơ Tu nơi đây.
Các tác giả đã khiêm tốn trình bày ý tưởng khi
làm sách “Trong công trình này, chúng tôi
chưa dám nói là đã ghi hết được các động tác múa
trong kho tàng dân vũ của các dân tộc Tà Ôi, Cơ
Tu, nhưng cũng cố gắng sắp xếp theo trình tự các
điệu múa ghi nhận được theo hệ thống động tác
đơn của các thể loại, và bước đầu tiến hành phân
loại, sắp xếp thành hệ thống khoa học làm cơ sở
cho việc phục hồi và phát triển”. Khi nghiên
cứu về dân vũ, các tác giả cũng đã khái quát cho
người đọc biết được nguyên nhân vì đâu hình
thành Môi trường nảy sinh nghệ thuật múa của
người Tà Ôi, Cơ Tu. Có các nguyên nhân sau:
* Phong tục: tục cưới, tục tang.
* Tín ngưỡng: lễ hội a riêu ping, lễ hội a riêu
âr pukh, lễ hội a riêu aza, a riêu pa chin đung,
a riêu alê aâr mai acay.
* Văn hóa dân gian: văn học dân gian, diễn xướng
âm nhạc dân gian, múa hát dân gian…
Theo chúng tôi đã từng nghiên cứu về dân vũ thì
đối với người Tà Ôi, Cơ Tu sự hòa hợp giữa các
làn điệu dân ca và sự hợp âm của các loại nhạc
cụ đã tạo nên một nền âm thanh vui nhộn khiến
cho con người bản địa càng trở nên thích tính
năng động(1). Hoặc “Thuở xưa, khi
đi săn về, người ta nhảy múa quanh đống lửa, bên
cột nhà gươl/rông mừng thành quả lao động. Ngày
nay họ múa trong ngày hội đâm trâu, trong buổi
lễ tạ ơn Mẹ lúa sau một mùa bội thu, múa trong
đám cưới, trong lúc cùng tụ hội vui chơi”
(2). Cho nên trong công trình này, các
tác giả đã nêu lên được những giá trị đích thực
về Nghệ thuật múa của người Tà Ôi, Cơ Tu bằng
cách dựa trên các tiêu chí và phân loại múa.
Theo tiêu chí thì nghệ thuật múa của họ được
chia làm 3 loại: múa trong lao động, múa trong
sinh hoạt và múa trong tín ngưỡng. Tiếp theo đó
là sự mô tả cũng như giải thích các động tác múa
cơ bản của nam lẫn nữ. Người xác lập các động
tác múa trong sách này đã minh họa cho người đọc
thấy được 86 hình vẽ 1 nét rất sinh động với sự
dịch chuyển từng động tác, cử chỉ có khi đơn
giản, có khi phức tạp như những điệu múa đánh
chiêng, múa giáo khi đâm trâu.
Cũng giống như ở chương 3, các tác giả nêu mối
liên hệ giữa dân ca và dân nhạc, thì ở chương 4
lại một lần nữa các tác giả lại tạo mối liên hệ
giữa dân nhạc và dân vũ. Theo các tác giả thì:
“Âm nhạc của người Tà Ôi, Cơ Tu gắn chặt với múa”,
và điều này rất đúng với những gì mà chúng tôi
đã từng chứng kiến và đã có nhận xét rằng:
“nghệ thuật múa của họ đã phần nào phản ánh cuộc
sống, quá trình lao động và chiến đấu của cộng
đồng. Mỗi động tác, điệu bộ, hình dáng múa có
được đều bắt nguồn từ sự lao động sáng tạo, từ
sinh hoạt văn hóa (văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần), chiến đấu của con người. Những chuỗi
động tác nhịp nhàng của cơ thể theo tiếng nhạc,
trống, cồng chiêng…trong những bộ trang phục
truyền thống họ đã góp phần làm cho cuộc sống
tinh thần càng thêm sinh động hơn” (3).
Và một nội dung không thể thiếu là các tác giả
cũng đã nêu được mối quan hệ giữa trang phục và
đạo cụ múa, trong trang phục múa người Tà Ôi, Cơ
Tu sử dụng 7 loại (âr toong, a păch (târ bọ), âr
poong (âm prong), pa hiceny, ân nai ngăh, pa
koom, tăng ooh), đạo cụ múa thuộc nhạc cụ có
trống, đồng la, chiêng, tù và sừng trâu, kèn
sừng trâu, khèn bè, cồng, sáo, đàn Ta lư, sáo
tre. Đạo cụ, dụng cụ sinh hoạt, vũ khí gồm rựa,
gùi, ống đựng rượu, ống nứa uống rượu, giáo,
khiên, gậy chọc lỗ trỉa lúa.
Sau khi kết thúc 4 chương dày dặn, như thể thay
đổi thực đơn, các tác giả còn thể hiện phần phụ
lục rất công phu với một số hình ảnh minh hoạ
các thế múa cơ bản của người Tà Ôi, Cơ Tu do các
anh chị ở Đội Thông tin lưu động huyện A Lưới
thể hiện đó là: Ta Dưr Tư (Pacô), Aren Đời (Cơ
Tu), Pi Kê Dơ (Pacô), A Viet Ple (Tà Ôi) và Đội
văn nghệ xã A Roàng trong phần múa có 27 ảnh màu
minh họa, phần dân nhạc có 13 ảnh màu minh họa.
Và tác giả Vĩnh Phúc đã cho in lại các bài
nghiên cứu đã từng công bố trên các tạp chí
chuyên ngành như: “Dân ca và nhạc cụ của
người Bru-Vân Kiều”, “Khảo sát lễ cầu mùa
(aza koonh) của người Tà Ôi” (Tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, số 3 (201), 2001), “Sinh
hoạt âm nhạc trong đám cưới của người Tà Ôi”
(Tập Nghiên cứu văn hóa dân gian Thừa
Thiên Huế, tháng 12/2000). Phần sau cùng của phụ
lục là 27 bản kí âm về dân ca và dân nhạc.
Qua phần điểm sách nói trên chúng tôi có nhận
xét một cách chân thành rằng:
+ Các tác giả thật sự dày công trong việc sưu
tầm và nghiên cứu dân ca, dân nhạc, dân vũ các
dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế một cách có
bài bản, nghiêm túc trong khoa học và tôn trọng
văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số ở Thừa
Thiên Huế nói riêng và các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam nói chung.
+ Có sự đối sánh với dòng dân ca, dân nhạc, dân
vũ không chỉ với các dân tộc cận cư, các dân tộc
thiểu số trong nước mà còn có sự liên hệ với bối
cảnh Đông Nam Á.
+ Tuy là nhóm tác giả nhưng lại có sự phân công
công việc một cách rõ ràng theo chuyên môn và
năng lực sở trường của từng thành viên. Cụ thể:
Nhạc sĩ Nguyễn Đình Sáng (Chủ biên - Chủ nhiệm
đề tài) nói lời mở đầu, Th. S Nguyễn Hữu Thông
viết chương 1 (Tổng quan về các dân tộc thiểu số
ở tỉnh Thừa Thiên Huế và những đặc trưng văn hóa
tộc người), Th. S - Nhạc sĩ Vĩnh Phúc viết
chương 2 (Dân ca), chương 3 (Dân nhạc), Biên đạo
múa - Nhà giáo ưu tú Cao Chí Hải viết chương 4 (Dân
vũ). Sự làm việc khoa học này đã đem đến kết quả
cao cho từng chương và cũng thể hiện trách nhiệm
của các tác giả.
+ Những hình ảnh minh họa phong phú từ ảnh đen
trắng đến ảnh màu với đầy đủ các nhạc cụ và điệu
múa một lần nữa chứng minh rằng sự thuyết phục
của công trình tập trung vào điểm nhấn đó.
+ Hình thức trình bày đẹp, nội dung chuyển tải
đúng hướng và sát hợp với chủ trương của đề tài.
Đặc biệt là sự đóng góp công sức của đội ngũ
biên tập kĩ thuật và trình bày là Tạp chí Nghiên
cứu và Phát triển.
+ Bên cạnh đó, cần có những bổ khuyết sau:
* Cách dùng từ ngữ đôi lúc bị thừa từ giữa tiếng
Việt và tiếng dân tộc. Đã có từ a riêu
thì bỏ bớt từ lễ hội để tránh thừa
từ, ví dụ như: lễ hội a riêu ping, lễ hội
a riêu âr pukh, lễ hội a riêu aza (trang
105, 106).
* Chưa thống nhất việc một số thuật ngữ nên đưa
tiếng dân tộc để mang tính thuyết phục cao, ví
dụ: tục cưới (tảrqlêq), tục
tang (xi xietq) (trang 104), rựa
(a cổ), gùi (a te), ống đựng
rượu (ângko abung), ống nứa uống
rượu (tooq), giáo (coss
arăm), khiên (khêl), gậy
chọc lỗ trỉa lúa (a pật/alao) (trang
122).
* Dẫu biết rằng hiện nay các nhà ngôn ngữ học và
dân tộc học chưa thống nhất tên gọi, phát âm,
phiên âm nghĩa là chưa chuẩn từ tên gọi các dân
tộc Tà Ôi, Pacô, Cơ Tu cho nên có rất nhiều cách
ghi khác nhau: Tà Ôi, Ta - ôi, Tà Ôi, Taoi, Ta
ôih, Cơ Tu, Cơ Tu, Cơ tu, Katu, Ka tu, Ktu, Pa
cô, Pacô, Pa Cô, Pa Kô, Pa kô. Vậy nên ngay đầu
sách nên chua thêm rằng: “Tên của các dân tộc
thiểu số Thừa Thiên Huế có sự không thống nhất
khi ghi bằng chữ viết giữa các tài liệu và các
tác giả nên chăng tên dân tộc sử dụng trong sách
mang tính tôn trọng lối thể hiện của các tác giả”.
Có như vậy người đọc sẽ yên tâm hơn.
* Với tập sách hay về mặt chữ và hình ảnh nhưng
nếu kèm thêm đĩa VCD ghi âm về lời ca, trình
diễn nhạc cụ và múa thì sẽ trở thành công cụ hỗ
trợ cho nhau và dễ dàng hơn cho những ai muốn
thưởng thức các loại hình nghệ thuật đặc sắc này.
* Ngoài 64 mục tài liệu tham khảo, nếu các tác
giả soạn ở phần phụ lục thêm “Thư mục dân ca,
dân nhạc, dân vũ các dân tộc thiểu số tỉnh Thừa
Thiên Huế” thì càng tuyệt vời hơn.
Điều muốn nói cuối cùng là xin được nhắc lại ý
nghĩa của công việc sưu tầm dân ca, dân nhạc,
dân vũ ở Thừa Thiên Huế mà chúng tôi đã đọc qua
khi các đơn vị đăng kí đấu thầu đề tài rằng:
“Vùng núi Thừa Thiên Huế, nơi cư trú chủ yếu của
người Cơ Tu, Tà Ôi, Bru - Vân Kiều cũng đang
hàng ngày hàng giờ tiếp cận với lối sống mới -
lối sống hiện đại, lối sống của cơ chế thị
trường. Bởi vậy nhiều giá trị văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế đang
có nguy cơ suy thoái. Một trong những giá trị
văn hóa đang đứng trước nguy cơ suy thoái là kho
tàng dân ca - dân nhạc - dân vũ của người Cơ Tu,
Tà Ôi, Bru - Vân Kiều. Vì vậy, nghiên cứu nhằm
bảo tồn kho tàng dân ca, dân nhạc, dân vũ của
đồng bào các dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế
là một việc làm vô cùng cần thiết, nhất là khi
các yếu tố đô thị, lối sống hiện đại đang ngày
càng lan tràn vào đời sống cư dân của làng đồng
bào các dân tộc thiểu số thì việc làm đó lại
càng cấp thiết hơn” (4)
Dù ai làm đi chăng nữa mỗi khi đã có sản phẩm
rồi chúng tôi đều tôn trọng. Và đặc biệt là đồng
bào các dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế là
chủ nhân và chủ thể văn hóa nơi đây rất chân
thành cảm ơn và cảm kích các tác giả và những
người làm công tác văn hóa, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa dân tộc đã làm sống dậy các
loại hình diễn xướng vốn đã có từ lâu trong đời
sống tinh thần của họ.
Cuốn sách Dân ca, dân nhạc, dân vũ các dân tộc
thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế rất đáng đọc. Xin
giới thiệu với các độc giả, các nhà nghiên cứu,
sinh viên và đặc biệt ưu ái dành tặng đồng bào
các dân tộc thiểu số Thừa Thiên Huế thân yêu.
Còn nhiều việc phải làm ở phía trước, nhiệm vụ
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc
thiểu số ở Thừa Thiên Huế đang đặt ra cấp thiết,
hy vọng rằng bằng các giải pháp bảo tồn và phát
huy trên, cùng những thực trạng đã nêu rõ, những
thuận lợi đã có, có thể giúp đồng bào nơi đây
nhận thức được giá trị của những yếu tố văn hóa
của dân tộc mình và có ý thức tìm về cội nguồn
để họ sẵn sàng tự tin bước vào một thời đại mới
khi tỉnh Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực
thuộc Trung ương.
:
Trần Hoàng: Đôi nét về ca múa nhạc của người
Tà Ôi, Tập san Giáo dục - Đào tạo, Sở Giáo
dục - Đào tạo Thừa Thiên Huế, tháng 9. 2002,
trang. 71.
:
Trường Đại học Khoa học Huế, khoa Sử, Bản thuyết
minh đề tài: “Sưu tầm dân ca - dân nhạc -
dân vũ các dân tộc thiểu số Thừa Thiên Huế”
(Đề cương nghiên cứu khoa học cấp tỉnh năm
2003 - 2004), Huế, 2003, tr 1 - 2. |